Đăng khoa lục họ Bùi Việt Yên
HBVN
Theo Gia phả Họ Bùi Việt Yên (Tùng Ảnh), trong họ đã có nhiều vị học hành đỗ đạt, từng giữ các chức quan huyện, quan phủ ở nhiều vùng trong nước. Để con cháu biết được truyền thống học hành của các bậc tiền nhân trong Họ, BBT website xin giới thiệu ĐĂNG KHOA LỤC HỌ BÙI VIỆT YÊN do Nhà Giáo Nhân dân Bùi Thân (thuộc đời thứ 16 – Chi 5) lược trích từ Gia phả và có đối chiếu với các nguồn tài liệu khác.
Bùi Công Đán (đời thứ 8), húy Huyền Trung con trai thứ Bùi Công Trực, đỗ Hương cống khoa Tân Mão (1651) giữ chức Tri huyện các huyện Nam Đường, Kỳ Hoa.
Bùi Công Trung (đời thứ 9): Con trưởng của Bùi Công Đán, đỗ Hương cống khoa Bính Tý (1696)
Bùi Sỹ Liên (đời thứ 11): Con thứ của Bùi Công Lượng, đỗ Tú tài khoa Tân Dậu (1741)
Bùi Khản (đời thứ 11), tên tự là Đình Tân, con Bùi Hiếu, đỗ Sinh đồ năm 27 tuổi (1745).
Bùi Hy (tức Bùi Đình Nho) – đời thứ 10: Sinh năm Mậu Ngọ (1678) con Bùi Luyện; đỗ Sinh đồ khoa Kỷ Mão (1699), đỗ Hương cống khoa Nhâm Ngọ (1702).
Bùi Truyền, tên chữ là Đình Thuyên (đời thứ 11): sinh năm Đinh Hợi. 17 tuổi đỗ Sảo thông; 20 tuổi đỗ Sinh đồ khoa Bính Ngọ, 26 tuổi đỗ Hương cống khoa Nhâm Tí. Bẩy khoa thi Hội đều trúng Tam trường. Trải giữ các chức Huấn đạo phủ Tiên Hưng; Tri huyện huyện Nam Đường; Tự thừa Đại lí tự; Viên ngoại lang bộ Lại. Được triều quan 4 lần khải bẩm tiến cử, đều cho là “Trong triều có thể đảm đương việc từ hàn, ngoài kinh có thể xứng đáng với phương diện nhà nước”. Được quan phủ liêu khải lên cho vào hạng xứng đáng tiến triều, được triệu vào hỏi về chính sự và các sách lược về binh bị và tài chính. Do xứng ý chúa nên được ban khen thăng lên chức Tham nghị Tán trị Thừa chính sứ ty xứ Thanh Hoa. Tại chức được 7 năm lại được khải bầu làm thanh tra, tìm tòi phát hiện được kẻ gian hoạt đề đạt lên, được thực thưởng thăng Hoằng tín Đại phu, giữ chức Tự khanh ở Thái bộc tự. Cụ mất năm Ất Mùi (1775) thọ 67 tuổi.
Bùi Nham (đời thứ 12), tên chữ là Đình Kính, con trưởng cụ Bùi Truyền, sinh năm Nhâm Tý (1732) đỗ Hương cống khoa Bính Tí, giữ chức Huấn đạo phủ Tiên Bình. Mất năm Giáp Ngọ (1774).
Bùi Đô (đời thứ 11), tên chữ là Đăng Dực, là con trai thứ 2 của cụ Bùi Truyền. Sinh năm Bính Thìn (1736), đỗ Sinh đồ khoa Canh Ngọ (1750), đỗ Hương cống khoa Ất Dậu (1756). Hai anh em đỗ cùng khoa. Được giữ chức Nho học Huấn đạo ở hai phủ Quảng Oai và Hà Hoa.
Bùi Dụ, tên chữ là Khả Dự (đời thứ 13, con trưởng Bùi Đô) sinh năm Đinh Sửu (1757). Khoa Quý Mão (1783) trúng xảo thông lúc 27 tuổi.
Bùi Diệp, tên chữ là Đình Xứng (đời thứ 12, con trai thứ 3 của cụ Bùi Truyền); sinh năm Canh Thân (1740) đỗ Hương cống khoa Ất Dậu (1765) lúc 26 tuổi. Hai anh em đỗ cùng khoa. Mất năm Tân Dậu (1801) thọ 62 tuổi.
Bùi Sum, tên chữ là Đình Trị (đời thứ 12, con trai thứ 4 của cụ Bùi Truyền); sinh năm Quý Hợi (1743) ; đỗ Sinh đồ khoa Bính Tý (1756) cùng khoa với anh cả là Bùi Nham. Mất năm Đinh Sửu, thọ 75 tuổi.
Bùi Rạng, tên chữ là Đình Huyến (đời thứ 12, con trai thứ 5 của cụ Bùi Truyền); sinh năm Canh Thân (1740), thi trúng Võ khoa, thi hương trúng Biền sinh, thi Hội nhiều khoa trúng Tam trường ; được ban chỉ cho đổi sang làm Tùy hiệu Hiệu úy thuộc cơ Suất Thắng Hữu, tước Huyên Vũ Bá. Mất năm Canh Ngọ (1810) thọ 71 tuổi.
Bùi Đá, tên chữ là Đình Vinh (đời thứ 13, con Bùi Rạng); sinh năm Giáp Thìn (1784); con Bùi Rạng. Năm Minh Mạng thứ 13, từ châm Giám sinh, ông thi hội khoa Nhâm Thìn. Năm Minh Mạng thứ 15 (1835) được bổ làm huyện thừa huyện Gia Lâm. Năm 1838, thăng tri huyện Lục Ngạn. Ông mất năm 1843 khi đang ở lị sở.
Bùi Thọ (sau đổi thành Bùi Thứ) thuộc đời thứ 14. con trưởng Bùi Đá, sinh năm Đinh Mão (1807), đỗ 2 khoa Tú tài (1838, 1840); đỗ Cử nhân khoa Nhâm Dần (1842), đến kì thi Hội năm Quý Mão (1843) phải bỏ thi vì tang cha. Năm 1847 được bổ tri huyện Quảng Địa, Nhiệp biện ấn vụ phủ Quảng Hóa. Đến năm Tự Đức thứ tư (Năm Tân Hợi – 1851) đổi sang tri huyện Gia Lâm; mất năm Nhâm Tí (1852) tại lỵ sở.
Bùi Ân (sau đổi thành Bùi Viết Tâm), thuộc đời thứ 14 con thứ 3 của Bùi Đá, sinh năm Mậu Tý (1828); đỗ Tú tài khoa Đinh Mão (1867), đỗ Cử nhân Ân khoa Mậu Thìn (1868), làm quan được thăng thưởng nhiều năm; từng làm tri huyện, tri phủ, hàn lâm viện thị giảng, khâm sai đổng lý thanh tra. Mất năm 1880 tai công quán khi đang thanh tra tại tỉnh Nam Định.
Bùi Viết Mỹ tức Bùi Tri Khoách (thuộc đời thứ 15) con trai thứ 2 của Bùi Viết Tâm; sinh năm Đinh Mão (1867). Đi khảo thí sinh ở huyện đỗ đầu xứ nhưng thi hương chỉ vào được nhị trường, tam trường. Đến đời Duy Tân, từ chức Ấm sinh, được bổ làm thừa phái…
Bùi Công Trung (đời thứ 9): Con trưởng của Bùi Công Đán, đỗ Hương cống khoa Bính Tý (1696)
Bùi Sỹ Liên (đời thứ 11): Con thứ của Bùi Công Lượng, đỗ Tú tài khoa Tân Dậu (1741)
Bùi Khản (đời thứ 11), tên tự là Đình Tân, con Bùi Hiếu, đỗ Sinh đồ năm 27 tuổi (1745).
Bùi Hy (tức Bùi Đình Nho) – đời thứ 10: Sinh năm Mậu Ngọ (1678) con Bùi Luyện; đỗ Sinh đồ khoa Kỷ Mão (1699), đỗ Hương cống khoa Nhâm Ngọ (1702).
Bùi Truyền, tên chữ là Đình Thuyên (đời thứ 11): sinh năm Đinh Hợi. 17 tuổi đỗ Sảo thông; 20 tuổi đỗ Sinh đồ khoa Bính Ngọ, 26 tuổi đỗ Hương cống khoa Nhâm Tí. Bẩy khoa thi Hội đều trúng Tam trường. Trải giữ các chức Huấn đạo phủ Tiên Hưng; Tri huyện huyện Nam Đường; Tự thừa Đại lí tự; Viên ngoại lang bộ Lại. Được triều quan 4 lần khải bẩm tiến cử, đều cho là “Trong triều có thể đảm đương việc từ hàn, ngoài kinh có thể xứng đáng với phương diện nhà nước”. Được quan phủ liêu khải lên cho vào hạng xứng đáng tiến triều, được triệu vào hỏi về chính sự và các sách lược về binh bị và tài chính. Do xứng ý chúa nên được ban khen thăng lên chức Tham nghị Tán trị Thừa chính sứ ty xứ Thanh Hoa. Tại chức được 7 năm lại được khải bầu làm thanh tra, tìm tòi phát hiện được kẻ gian hoạt đề đạt lên, được thực thưởng thăng Hoằng tín Đại phu, giữ chức Tự khanh ở Thái bộc tự. Cụ mất năm Ất Mùi (1775) thọ 67 tuổi.
Bùi Nham (đời thứ 12), tên chữ là Đình Kính, con trưởng cụ Bùi Truyền, sinh năm Nhâm Tý (1732) đỗ Hương cống khoa Bính Tí, giữ chức Huấn đạo phủ Tiên Bình. Mất năm Giáp Ngọ (1774).
Bùi Đô (đời thứ 11), tên chữ là Đăng Dực, là con trai thứ 2 của cụ Bùi Truyền. Sinh năm Bính Thìn (1736), đỗ Sinh đồ khoa Canh Ngọ (1750), đỗ Hương cống khoa Ất Dậu (1756). Hai anh em đỗ cùng khoa. Được giữ chức Nho học Huấn đạo ở hai phủ Quảng Oai và Hà Hoa.
Bùi Dụ, tên chữ là Khả Dự (đời thứ 13, con trưởng Bùi Đô) sinh năm Đinh Sửu (1757). Khoa Quý Mão (1783) trúng xảo thông lúc 27 tuổi.
Bùi Diệp, tên chữ là Đình Xứng (đời thứ 12, con trai thứ 3 của cụ Bùi Truyền); sinh năm Canh Thân (1740) đỗ Hương cống khoa Ất Dậu (1765) lúc 26 tuổi. Hai anh em đỗ cùng khoa. Mất năm Tân Dậu (1801) thọ 62 tuổi.
Bùi Sum, tên chữ là Đình Trị (đời thứ 12, con trai thứ 4 của cụ Bùi Truyền); sinh năm Quý Hợi (1743) ; đỗ Sinh đồ khoa Bính Tý (1756) cùng khoa với anh cả là Bùi Nham. Mất năm Đinh Sửu, thọ 75 tuổi.
Bùi Rạng, tên chữ là Đình Huyến (đời thứ 12, con trai thứ 5 của cụ Bùi Truyền); sinh năm Canh Thân (1740), thi trúng Võ khoa, thi hương trúng Biền sinh, thi Hội nhiều khoa trúng Tam trường ; được ban chỉ cho đổi sang làm Tùy hiệu Hiệu úy thuộc cơ Suất Thắng Hữu, tước Huyên Vũ Bá. Mất năm Canh Ngọ (1810) thọ 71 tuổi.
Bùi Đá, tên chữ là Đình Vinh (đời thứ 13, con Bùi Rạng); sinh năm Giáp Thìn (1784); con Bùi Rạng. Năm Minh Mạng thứ 13, từ châm Giám sinh, ông thi hội khoa Nhâm Thìn. Năm Minh Mạng thứ 15 (1835) được bổ làm huyện thừa huyện Gia Lâm. Năm 1838, thăng tri huyện Lục Ngạn. Ông mất năm 1843 khi đang ở lị sở.
Bùi Thọ (sau đổi thành Bùi Thứ) thuộc đời thứ 14. con trưởng Bùi Đá, sinh năm Đinh Mão (1807), đỗ 2 khoa Tú tài (1838, 1840); đỗ Cử nhân khoa Nhâm Dần (1842), đến kì thi Hội năm Quý Mão (1843) phải bỏ thi vì tang cha. Năm 1847 được bổ tri huyện Quảng Địa, Nhiệp biện ấn vụ phủ Quảng Hóa. Đến năm Tự Đức thứ tư (Năm Tân Hợi – 1851) đổi sang tri huyện Gia Lâm; mất năm Nhâm Tí (1852) tại lỵ sở.
Bùi Ân (sau đổi thành Bùi Viết Tâm), thuộc đời thứ 14 con thứ 3 của Bùi Đá, sinh năm Mậu Tý (1828); đỗ Tú tài khoa Đinh Mão (1867), đỗ Cử nhân Ân khoa Mậu Thìn (1868), làm quan được thăng thưởng nhiều năm; từng làm tri huyện, tri phủ, hàn lâm viện thị giảng, khâm sai đổng lý thanh tra. Mất năm 1880 tai công quán khi đang thanh tra tại tỉnh Nam Định.
Bùi Viết Mỹ tức Bùi Tri Khoách (thuộc đời thứ 15) con trai thứ 2 của Bùi Viết Tâm; sinh năm Đinh Mão (1867). Đi khảo thí sinh ở huyện đỗ đầu xứ nhưng thi hương chỉ vào được nhị trường, tam trường. Đến đời Duy Tân, từ chức Ấm sinh, được bổ làm thừa phái…
Bùi Chí Nhân (Theo hobuitunganh.org.vn)
CÙNG CHUYÊN MỤC
-
Đoan quận công Bùi Thế Đạt - Một võ tướng ưu quốc, ái dân giữa thế kỷ XVIII
Bùi Thế Đạt sinh ngày 04 tháng 01 năm Giáp Thân (1704), đời vua Lê Hi Tông, niên hiệu Chính Hòa thứ 25, tại làng Bùng (thôn Hữu Bằng), xã Tiên Lý, tổng Lý Trai, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, trấn Nghệ An (nay là xóm Trung Yên, xã Diễn Ngọc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An). -
Bùi Xuân Tuy - Doanh nhân họ Bùi trong buổi bình minh ngành in-xuất bản Việt Nam
Trải qua bốn thập niên xây dựng và phát triển, doanh nhân Bùi Xuân Tuy với Nhà xuất bản - Nhà in Cộng Lực đã in đậm dấu ấn trong ngành in-xuất bản của Hà Nội và cả nước. Đây là một trong những nhà in-nhà xuất bản tư nhân đầu tiên đã góp phần lưu truyền và quảng bá những tư tưởng... -
Cuộc đời nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam
Henriette Bùi Quang Chiêu đã quyết định theo học Đại học Y khoa Paris vào năm 1927. Quyết tâm theo học Y khoa của cô bé Henriette khi đó trở nên mãnh liệt hơn khi mẹ cô mất vì bệnh tật. Sau 7 năm học tập, Henriette Bùi Quang Chiêu bảo vệ luận án đạt loại Xuất sắc vào năm 1934. Luận... -
Binh Bộ tả tham tri Bùi Tuấn diệt giặc Ngô Côn
“Đại Nam chính biên liệt truyện” (tập II, quyển 33) viết về nhân vật Bùi Tuấn, người đã cùng Tán lý Ông Ích Khiêm diệt đầu lĩnh Ngô Côn như sau: “Bùi Tuấn, tự là Trạch Phủ, người Sơn Lãng, Hà Nội. Năm đầu Thiệu Trị đỗ tiến sĩ, được bổ làm Tri phủ Thọ Xuân, sau chuyển về “Khảo công...